Sử dụng phương pháp thăm dò điện trở (ERT) trong nghiên cứu đánh giá tai biến trượt lở đất tại dự án khu đô thị X, Thành phố Đà Lạt

- Tác giả: Trần Đăng Tuấn 1, Lại Hợp Phòng 1, Phạm Ngọc Đạt 1, Phạm Hồng Trang 1*, Đinh Văn Toàn 1, Dương Thị Ninh 1, Trần Trung Hiếu 1, Bùi Văn Thơm 1, Phạm Đức Nghiệp 2
Cơ quan:
1 Viện các Khoa học Trái Đất- Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam
2 Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Hà Nội, Việt Nam
- *Tác giả liên hệ:This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
- Từ khóa: Đà Lạt, Thăm dò điện trở, Trượt lở.
- Nhận bài: 30-11-2024
- Sửa xong: 30-03-2025
- Chấp nhận: 15-05-2025
- Ngày đăng: 01-06-2025
- Lĩnh vực: Địa chất - Khoáng sản
Tóm tắt:
Trượt lở đất xảy ra thường xuyên trong mùa mưa bão ở các vùng có địa hình dốc với mức độ ngày càng nghiêm trọng, gây nhiều thiệt hại cả về người và tài sản. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng phương pháp thăm dò điện trở để xác định đặc điểm cấu trúc địa chất của các tầng nông và đánh giá mối quan hệ của nó với hiện tượng trượt lở tại khu vực dự án đô thị X phía tây thành phố Đà Lạt. Việc đo đạc thực địa sử dụng phương pháp đo sâu điện với 6 tuyến đo cùng hệ thiết bị 4 điện cực đối xứng (W-S). Kết quả đã xác định được môi trường dưới các tuyến đo gồm 3 lớp: lớp 1 là lớp phong hóa triệt để với tính chất cơ lý phản ánh là vùng đất yếu, lớp 2 là lớp bán phong hóa và lớp 3 là phần trên của lớp đá rắn chắc. Thêm vào đó, tài liệu điện còn phát hiện các đới phá hủy đứt gãy và vùng có khả năng chứa nước theo giá trị điện trở suất thấp là yếu tố liên quan đến trượt lở. Liên kết với hiện trạng trượt lở đã xảy ra trong vùng cho thấy, trượt lở xảy ra chủ yếu tại các điểm có bề dày lớp 1 lớn xuất hiện đồng thời với đới phá hủy đứt gãy có khả năng chứa nước. Các dấu hiệu trên được tích hợp với tài liệu địa hình, địa chất - địa mạo, liên kết với đặc tính cơ lý của đất đá thu thập từ các lỗ khoan để khoanh vùng dự báo nguy cơ trượt lở. Kết quả cho thấy vùng nguy cơ cao tập trung ở phần Đông Nam khu vực nghiên cứu, vùng nguy cơ trung bình phân bố rải rác ở khu vực phía tây, các vùng còn lại được coi là vùng có nguy cơ thấp.

Archie, G.E. (1942). The electrical resistivity log as an aid in determining some reservoir characteristics. Transactions of the AIME, 146(01), pp.54-62.
Bièvre, G., Jongmans, D., Winiarski, T., Zumbo, V. (2012). Application of geophysical measurements for assessing the role of fissures in water infiltration within a clay landslide (Trieves area, French Alps). Hydrol. Process. 26, 2128–2142
Crawford, M., and Bryson L. (2018). Assessment of active landslides using field electrical measurements. Eng Geol 233:146–159. https://doi.org/10.1016/j.enggeo.2017.11.012
Dat, P.N., Trang P.H., Phong L.H., Toan D.V., Ninh D.T., Tuan T.D., Thong K.D., Kien N.P. (2024). Application of Multi-Near-Surface Geophysical Surveys for Geothermal Spring: A Case Study in Kon Tum Province, Vietnam. Journal of Environmental and Engineering Geophysics, 29(1), 9-21.
Dostál, I., and Putiška R, Kušnirák D. (2014). Determination of shear surface of landslides using electrical resistivity tomography. Contrib Geophys Geodesy 44(2):133–147. https://doi.org/10.2478/congeo-2014-0008
Griffiths, D.H., Barker, R.D. (1993). Two-dimensional resistivity imaging and modelling in areas of complex geology. Ournal Appl. Geophys. 29, 21–26. http://dx.doi.org/10.1016/0926-9851(93)90005-J
Holec J, Bednarik M, Sabo M, Minar J, Yilmaz I, Marschalko M. (2013). A small-scale landslide susceptibility assessment for the territory of Western Carpathians. Nat Hazard 69:1081–1107. https://doi.org/10.1007/s11069-013-0751-6
Kamiński, M. (2015). Application of airborne laser scanning and electrical resistivity tomography in comprehensive research of landslides – example from the Dynow ´Foothill (Outer Carpathians). Prz. Geol. 63, 410–417. (in Polish)
Kamiński, M., Zientara, P., and Krawczyk, M. (2021). Electrical resistivity tomography and digital aerial photogrammetry in the research of the “Bachledzki Hill” active landslide – in Podhale (Poland). Engineering Geology, 285, 106004. https://doi.org/10.1016/j.enggeo.2021.106004
Lê, N. T., Nguyễn, V. G. (2012). Góp phần xác định nguyên nhân sạt lở bờ Sông Tiền và Sông Sài Gòn bằng các khảo sát địa vật lý gần mặt đất. Tạp chí các khoa học về trái đất, 34(3), 205–216.
Lê, N. T., Nguyễn, Q. D., Nguyễn, S. N., Nguyễn, P. H., Lưu, H. T. (2021). Thành lập bản đồ phân vùng nguy cơ trượt lở đất Thành phố Đà Lạt bằng phương pháp phân tích thứ bậc và hệ thông tin địa lý. Tạp chí khoa học đại học mở Thành phố Hồ Chí Minh - Kỹ thuật và Công nghệ,16(1), 142-155. https://doi.org/10.46223/HCMCOUJS. tech.vi.1 6.1.1229.2021.
ADDIN ZOTERO_BIBL {"uncited":[],"omitted":[],"custom":[]} CSL_BIBLIOGRAPHY Loke, M.H., Barker, R.D. (1996). Rapid least-squares inversion of apparent resistivity pseudosections by a quasi-Newton method. Geophys. Prospect. 44, 131–152. https://doi.org/10.1111/j.1365 2478.1996.tb00142.
Loke, M.H. (2010). RES2DINV ver. 3.59, Geoelectrical Imaging 2Dand3D, Geotomo software, 148p
Nguyễn Văn Cường và nnk. (1994-1995). Báo cáo thành lập bản đồ địa chất và khoáng sản nhóm tờ Đà Lạt tỉ lệ 1/50 000. Lưu trữ liên đoàn bản đồ địa chất Miền Nam.
Nguyễn, B. D., Hai, Đặng T., Minh, V. D., and Hiên, L. T. T. (2011). Nghiên cứu xác định nguyên nhân trượt lở khu vực cầu Móng Sến, tỉnh Lào Cai. Tạp chí các khoa học về trái đất, 33(2), 164–174. https://doi.org/10.15625/0866-7187/33/2/322.
Olabode, O. P., Lim, H. S., and Ramli, M. H. (2022). Geophysical and Geotechnical Evaluation of Landslide Slip Surface in a Residual Soil for Monitoring of Slope Instability. Earth and Space Science, 9(12), e2022EA002248. https://doi.org/10.1029/2022EA002248
Pasierb, B., Grodecki, M., and Gwóźdź, R. (2019). Geophysical and geotechnical approach to a landslide stability assessment: A case study. Acta Geophysica, 67(6), 1823–1834. https://doi.org/10.1007/s11600-019-00338-7
Park, S. G., and Kim, J. H. (2005). Geological Survey by Electrical Resistivity Prospecting in Landslide Area. Geosystem Engineering, 8(2), 35–42. https://doi.org/10.1080/12269328.2005.10541234
Panek T, Hradecky J, Silhan K (2008) Application of electrical resistivity tomography (ERT) in the study of various types of slope deformations in anisotropic bedrock: case studies from the Flysch Carpathians. Studia Geomorphol Carpatho-Balcanica 42:57–73
Perrone, A., Lapenna, V., and Piscitelli, S. (2014). Electrical resistivity tomography technique for landslide investigation: A review. Earth-Science Reviews, 135, 65–82. https://doi.org/10.1016/j.earscirev.2014.04.002
Nguyễn, V.T., và các tác giả (2024). Báo cáo tổng hợp đề tài “Nghiên cứu cơ sở khoa học, xây dựng hệ thống quan trắc cảnh báo trượt lở tự động tại một số khu đô thị trọng điểm khu vực Tây Nguyên”.
Reynolds, J.M. (1997) An introduction to applied and environmental geophysics. Wiley, Hoboken.
Tomecka-Suchoń, S., Żogała, B., Gołębiowski, T., Dzik, G., Dzik, T., Jochymczyk, K. (2017) Application of electrical and electromagnetic methods to study sedimentary covers in high mountain areas. Acta Geophys 65:743–755. https://doi.org/10.1007/s11600-017-0068-z
Sun, M., Liu, J., Ou, J., Liu, R., and Zhu, L. (2024). Electrical Resistivity Tomography (ERT) Investigation for Landslides: Case Study in the Hunan Province, China. Applied Sciences, 14(7), 3007. https://doi.org/10.3390/app14073007.
Trần, V. T., Văn, D. T., Nguyễn, T. T. H. (2006). Đặc điểm phát triển kiến tạo đới Đà Lạt và kế cận trong Mesozoi muộn - Kainozoi. Tạp chí các khoa học về trái đất, 28(2), 140–149.https://doi.org/10.15625/0866-7187/ 28/2/11654.
Các bài báo khác